1. Địa giới hành chính.
Xã
Đại Hà nằm ở phía Nam huyện, Bắc giáp xã Thanh Sơn, Nam giáp xã Tân
Trào, Tây giáp xã Kiến Quốc và xã Thụy Hương, Đông giáp xã Ngũ Đoan. Từ
trung tâm xã theo đường 404 và 402 về đến trung tâm huyện lỵ 3 km. Tổng
diện tích tự nhiên của xã: 371,88 ha.
Vùng
đất này xưa thuộc tổng Cổ Trai. Đến năm 1946, cả 3 thôn Ngọc Liễn, Cao
Bộ, Nhân Trai của xã đều thuộc xã Ngũ Đoan Hưng. Tháng 7 năm 1956, xã
Đại Hà được thành lập trên cơ sở tách ra từ xã Ngũ Đoan Hưng. Xã Đại Hà
hiện nay có 4 thôn là Nhân Trai, Ngọc Liễn, Cao Bộ, Cao Tiến và 1 cụm
dân cư.
Theo số liệu thống kê ngày 01/4/2009, số dân của xã Đại Hà là 6.664 người. Mật độ dân số 1.796 người/km2.
Cả xã có 64 dòng họ và 1.985 hộ dân. Lực lượng lao động chiếm 54% dân
số, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 40%, lao động TTCN chiếm 11%,
thương mại và dịch vụ chiếm 3%, còn lại là các ngành nghề khác. Đa số
dân Đại Hà theo đạo Phật.
2. Lịch sử, truyền thống
Các
làng của xã Đại Hà xưa đều thuộc tổng Cổ Trai, là nơi phát tích Vương
triều Mạc (1527-1582). Tương truyền, trong cuộc kháng chiến chống quân
Mông - Nguyên xâm lược lần thứ 3 (năm 1288), nơi đây vừa là hậu phương
vừa là nơi cung cấp cho tướng Vũ Hải của nhà Trần nhiều nhân tài vật
lực, góp phần đánh thắng đoàn thuyền chiến của giặc trên cửa biển Đại
Bàng (biển phía nam Đồ Sơn ngày nay). Dưới triều nhà Mạc, nhân dân các
làng Nhân Trai, Ngọc Liễn đã hết lòng góp sức cùng với Vương triều xây
dựng kinh đô “Dương Kinh” và chấn hưng đất nước.
Trải
qua các triều đại, các thế hệ người dân “đất đế đô” luôn nêu cao tinh
thần đoàn kết, kiên cường đấu tranh chống lại ách áp bức bóc lột của
phong kiến và thực dân. Nổi bật là vào những năm cuối thế kỷ thứ 19,
nhân dân trong làng đã đi theo Lãnh Kỳ (Vũ Hữu Kỳ người làng Cổ Trai),
Lãnh Mộc (ở Kỳ Sơn, Tân Trào) tích cực hưởng ứng phong trào chống Pháp
do Mạc Đình Phúc lãnh đạo. Năm 1922, Hoàng Văn Đọc “tức Già Một”- người
con ưu tú của làng Cao Bộ làm nghề thuỷ thủ cho tầu buôn Pháp, được giác
ngộ cách mạng. Ông được tổ chức bí mật cho gặp Nguyễn ái Quốc, được
giao nhiệm vụ hoạt động trong đường dây giao thông vận chuyển tài liệu
bí mật từ Pháp về Hải Phòng và được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng
từ năm 1929. Ông bị giặc Pháp bắt tù đày ở Côn Đảo; năm 1937, nhờ có
phong trào đấu tranh đòi dân chủ trong các nước thuộc địa dâng cao, ông
được tha và bị quản thúc tại quê nhà. Phát huy vai trò của người đảng
viên Cộng sản, ông tích cực hoạt động tuyên truyền cách mạng tại địa
phương; chủ động liên lạc, móc nối với các đồng chí cán bộ Xứ uỷ Bắc Kỳ
về xây dựng cơ sở Việt Minh tại huyện Kiến Thụy.
Dưới
sự lãnh đạo của Việt Minh, nhân dân địa phương đã tích cực cùng với các
xã trong huyện nổi dậy cướp chính quyền tay sai thân Nhật tại phủ lỵ
Kiến Thụy vào ngày 14/8/1945. Ngày 18/8/1945, các thôn Nhân Trai, Cao Bộ
và Ngọc Liễn trong xã thành lập Uỷ ban giải phóng lâm thời. Ngày
24/4/1946, Uỷ ban hành chính xã được thành lập. Ngày 15/10/1946, Chi bộ
Đảng Cộng sản đầu tiên của xã được thành lập, đánh dấu bước phát triển
mới của phong trào cách mạng ở địa phương. Suốt chín năm trường kỳ kháng
chiến gian khổ hy sinh chống thực dân Pháp xâm lược mặc dù phải nằm
trong vòng kiểm soát gắt gao của địch, quân và dân địa phương vẫn một
lòng theo Đảng, kiên cường bám trụ “một tấc không đi, một ly không dời”,
dũng cảm chiến đấu để giải phóng quê hương. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Đại Hà “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, tích
cực chi viện “sức người, sức của” cho tiền tuyến, góp phần đánh thắng
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trong sự nghiệp xây dựng CNXH và thực hiện
công cuộc đổi mới, xã Đại Hà đẩy mạnh việc phục hồi và phát
triển kinh tế, cải tiến mô hình hợp tác xã nông nghiệp, tiếp thu tiến bộ
KHKT, tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với “cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”... nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân.
Xã
Đại Hà đã được Đảng và Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý: 2 Huân
chương kháng chiến hạng Ba về thành tích trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ. Huân chương Chiến công hạng Ba về thành tích
xuất sắc trong công tác quốc phòng địa phương. Bằng khen của Chính phủ
về thành tích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội. Xã có 5 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 157 gia đình được Chính
phủ tặng Bằng có công với nước; 186 cá nhân được tặng thưởng Huân, Huy
chương các loại. Xã có 815 người tham gia quân đội, 56 người là thanh
niên xung phong, 155 liệt sỹ, 29 thương binh, 9 bệnh binh.
3. Kinh tế.
Cơ
cấu kinh tế của xã Đại Hà hiện nay: nông nghiệp chiếm 70%; ngành nghề
sản xuất tiểu thủ công nghiệp 15%, kinh doanh thương mại và dịch vụ là
15%.
Đến
hết năm 2008, toàn xã có 4 trang trại và 12 gia trại. Một số hộ đã mạnh
dạn chuyển đổi sang mô hình trồng hoa cây cảnh, bước đầu mang lại hiệu
quả kinh tế cao.
Nghề
truyền thống lâu đời của các làng như: chài lưới, rèn, nhuộm nâu đều đã
mai một. Trên địa bàn hình thành các cơ sở sản xuất, gia công vật liệu
xây dựng và dịch vụ vận tải; các nghề tiện, sơn, hàn, sửa chữa phương
tiện xe gắn máy, thiết bị điện máy...có xu hướng phát triển mạnh.
Xã
có 2 chợ tạm ở khu trung tâm xã và ở thôn Nhân Trai, chủ yếu phục vụ
nhu cầu cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của nhân dân địa phương. Tại khu
vực ngã tư thôn Nhân Trai là điểm giao cắt giữa đường 403 và 404 đang
hình thành nên trung tâm dịch vụ thương mại vùng.
Sản phẩm đặc trưng của địa phương là cây thuốc lào, gần đây là một số loại hoa và cây cảnh.
Đường
liên huyện 404 qua địa bàn xã dài 2,5 km; phía Bắc giao cắt với đường
402, phía Nam giao cắt với đường 403. Đường phủ nhựa liên thôn 4,7 km,
đạt 79%, bê tông ngõ xóm 5,7 km, đạt 69%. Cả xã có 8 xe ô tô vận tải,
đang dần từng bước thay thế xe công nông và các phương tiện vận chuyển
thô sơ.
Thu nhập bình quân đầu người 2008: 9,8 triệu VND (chưa thống kê hết nguồn thu của người đi lao động ở xa). Tỷ lệ hộ nghèo 10,9% theo tiêu chí mới.
Tỷ
lệ người dùng điện thoại 25 máy/100 dân, xe máy 5 người/xe; số hộ có
ti vi chiếm 100%, nhà xây mái bằng kiên cố 20% và tỷ lệ hộ dùng nước
hợp vệ sinh chiếm 90% dân số.
Đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân đang từng bước được nâng cao.
Xã không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,2% theo tiêu chí mới.
4. Văn hoá - xã hội.
Theo
thần tích, thần sắc của các làng, văn hoá truyền thống vật thể và phi
vật thể ở nơi đây khá phong phú dưới thời Nhà Mạc (1527-1592). Dưới thời
Lê-Trịnh, các công trình kiến trúc lớn có giá trị đều bị tàn phá chỉ
còn lại “phế tích”. Đến thời Nguyễn nhân dân địa phương đóng góp kinh
phí trùng tu, tôn tạo và xây dựng lại các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo của
làng như: đình, chùa, đền, miếu…Do thiên nhiên khắc nghiệt, nhất là
trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, một số công trình đã bị
dỡ bỏ để thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” của Đảng. Hiện tại
xã còn lại 3 ngôi chùa; trong đó chùa Trung Linh ở thôn Ngọc Liễn và
chùa Phúc Linh ở thôn Nhân Trai được xếp hạng là di tích lịch sử cấp
Thành phố.
Hương
ước của các làng xưa khuyến khích phát huy truyền thống dân tộc và giữ
gìn nét đẹp văn hoá. Hưởng ứng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá”, 100% các làng và khu dân cư trong xã đều xây dựng nội
dung hương ước mới tiến bộ. Làng văn hoá Nhân Trai đạt danh hiệu cấp
thành phố, các làng khác đều đạt danh hiệu cấp huyện. Đến nay, hệ thống
cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm và các thiết chế văn hoá đã
được xây dựng khá đồng bộ, hoạt động hiệu quả.
Dưới
thời nhà Mạc, nơi đây có truyền thống về học hành, khoa bảng và tham
gia triều Mạc chấn hưng đất nước, đó chính là các bậc Đế Vương và Hoàng
thân Quốc thích trong triều. Thời Pháp thuộc, trên địa bàn của xã có một
lớp dạy chữ Nho cho con em nhà giàu, vì vậy có tới 95% số người bị mù
chữ.
Dưới
chế độ mới, sự nghiệp giáo dục của xã Đại Hà không ngừng phát triển cả
về quy mô và chất lượng. Xã xoá mù chữ năm 1956, phổ cập tiểu học năm
1991, trung học cơ sở năm 2000, phổ cập trung học và nghề năm 2008. Cả 3
trường: Mầm non, Tiểu học và THCS đều đạt danh hiệu trường tiên tiến
cấp huyện.
Xã
có 285 người có trình độ đại học và cao đẳng, 190 người có bằng trung
học chuyên nghiệp và nghề (thống kê cả người thoát ly). Năm 2008, xã có
16 em học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng.
Trạm
y tế đa khoa của xã đảm nhận chức năng khám chữa bệnh cho nhân dân
trong cụm (Đại Hà, Ngũ Đoan, Tân Trào); liên tục nhiều năm liền không để
xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Năm 2004 xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế.
5. Định hướng phát triển.
Nông
nghiệp hướng vào dồn đổi tích tụ ruộng đất, phân vùng kinh tế chuyên
canh sản xuất lương thực, thực phẩm và các loại rau màu sạch đáp ứng nhu
cầu của thị trường, khu công nghiệp và xuất khẩu. Chú trọng xây dựng mô
hình kinh tế trang trại, gia trại, nuôi trồng thuỷ sản ở vùng sâu
trũng, gắn sản xuất với chế biến nông sản, thực phẩm trên địa bàn.
Xây dựng chợ đầu mối thu mua thuỷ hải sảnphát triển thương mại, dịch vụ vùng ở thôn Nhân Trai.